Tôn giáo Baha'i tại Việt Nam Bahá'í_giáo

Bài chi tiết: Bahá'í tại Việt Nam
Đại hội đại biểu Cộng đồng tôn giáo Baha'i tại Đà Nẵng, năm 2009.

Tôn giáo Bahá'í được giới thiệu lần đầu tiên vào Việt Nam trong những năm 1920, sau khi Abdu'l-Baha đặt tên Đông Dương thuộc Pháp làm điểm đến tiềm năng cho giáo viên của Baha'i.[3] Sau một số chuyến viếng thăm ngắn từ các giáo viên du lịch trong suốt nửa đầu của thế kỷ 20, nhóm Bahá'i đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại Sài Gòn vào năm 1954, với sự xuất hiện của Shirin Fozdar, một nữ tín đồ người Ấn Độ.[2]

Những năm 1950 và 1960 được đánh dấu bởi những thời kỳ tăng trưởng nhanh; Mặc dù cuộc chiến đang diễn ra đang ảnh hưởng đến đất nước, dân số Bahá'i đã lên tới khoảng 95.000 người ủng hộ vào năm 1975, với một số ước tính đạt 200.000 người.[2][4] Sau khi kết thúc chiến tranh, Tôn giáo Bahá'í đã bị cấm từ năm 1978 đến năm 1992, dẫn đến sự sụt giảm số lượng cộng đồng. Cuối cùng, những hạn chế đã được nới lỏng và cộng đồng Baha'i đã có thể nộp đơn xin công nhận chính thức.

Tôn giáo Baha’i Việt Nam được chứng nhận đặng ký hoạt động tôn giáo từ tháng 3 năm 2007. Ngày 21 tháng 3 năm 2008, Cộng đồng tôn giáo Baha’i Việt Nam đã tiến hành tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất để bầu Hội đồng Tinh thần tôn giáo Baha’i Việt Nam và thông qua Hiến chương, chương trình hoạt động của đạo. Ngày 14 tháng 7 năm 2008, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam đã ký quyết định công nhận tổ chức đối với Cộng đồng tôn giáo Bahá’í Việt Nam. Hiện nay có hơn 8.000 tín đồ Baha'i phân bố ở 45 tỉnh/thành phố.[4]